وه‌رگێڕانی ماناكانی قورئانی پیرۆز - وەرگێڕاوی ڤێتنامی - ناوەندی ڕواد بۆ وەرگێڕان

ژمارەی پەڕە:close

external-link copy
28 : 6

بَلۡ بَدَا لَهُم مَّا كَانُواْ يُخۡفُونَ مِن قَبۡلُۖ وَلَوۡ رُدُّواْ لَعَادُواْ لِمَا نُهُواْ عَنۡهُ وَإِنَّهُمۡ لَكَٰذِبُونَ

Không đâu, (họ sẽ không có đức tin như lời đã nói), những gì mà họ giấu giếm trước đây sẽ lộ ra. Cho dù họ được cho trở lại (cuộc sống trần gian) thì họ sẽ vẫn tái phạm những điều cấm bởi quả thật họ là những kẻ gian dối. info
التفاسير:

external-link copy
29 : 6

وَقَالُوٓاْ إِنۡ هِيَ إِلَّا حَيَاتُنَا ٱلدُّنۡيَا وَمَا نَحۡنُ بِمَبۡعُوثِينَ

(Những kẻ thờ đa thần này) nói: “Thật ra, chẳng có cuộc sống nào ngoài cuộc sống của chúng ta trên trần gian này, chúng ta sẽ không được phục sinh trở lại (cho việc phán xét và thưởng phạt).” info
التفاسير:

external-link copy
30 : 6

وَلَوۡ تَرَىٰٓ إِذۡ وُقِفُواْ عَلَىٰ رَبِّهِمۡۚ قَالَ أَلَيۡسَ هَٰذَا بِٱلۡحَقِّۚ قَالُواْ بَلَىٰ وَرَبِّنَاۚ قَالَ فَذُوقُواْ ٱلۡعَذَابَ بِمَا كُنتُمۡ تَكۡفُرُونَ

Nếu như Ngươi (Thiên Sứ) thấy cảnh (những người vô đức tin) bị bắt đứng trình diện trước Thượng Đế của họ (thì Ngươi sẽ thấy tình trạng tồi tệ của họ) khi (Allah) bảo họ: “Lẽ nào điều này (sự Phục Sinh) không phải là sự thật?” Họ đáp: “Thưa Thượng Đế của bầy tôi, nó là sự thật.” (Allah) phán: “Vậy thì các ngươi hãy nếm lấy hình phạt bởi những gì mà các ngươi đã từng phủ nhận.” info
التفاسير:

external-link copy
31 : 6

قَدۡ خَسِرَ ٱلَّذِينَ كَذَّبُواْ بِلِقَآءِ ٱللَّهِۖ حَتَّىٰٓ إِذَا جَآءَتۡهُمُ ٱلسَّاعَةُ بَغۡتَةٗ قَالُواْ يَٰحَسۡرَتَنَا عَلَىٰ مَا فَرَّطۡنَا فِيهَا وَهُمۡ يَحۡمِلُونَ أَوۡزَارَهُمۡ عَلَىٰ ظُهُورِهِمۡۚ أَلَا سَآءَ مَا يَزِرُونَ

Những kẻ phủ nhận việc gặp Allah chắc chắn sẽ thua thiệt. Mãi đến khi Giờ Tận Thế bất ngờ xảy đến với họ thì họ mới nói: “Thật khổ thân cho chúng ta về điều mà chúng ta đã thường làm ngơ!” Họ phải mang trên lưng tội lỗi của mình. Thật tồi tệ cho tội lỗi mà họ phải gánh lấy! info
التفاسير:

external-link copy
32 : 6

وَمَا ٱلۡحَيَوٰةُ ٱلدُّنۡيَآ إِلَّا لَعِبٞ وَلَهۡوٞۖ وَلَلدَّارُ ٱلۡأٓخِرَةُ خَيۡرٞ لِّلَّذِينَ يَتَّقُونَۚ أَفَلَا تَعۡقِلُونَ

Cuộc sống trần gian này chỉ là trò vui chơi và thú tiêu khiển (ngắn ngủi cho những ai không muốn làm hài lòng Allah), và cõi Đời Sau thực sự tốt đẹp (trường tồn) cho những người ngoan đạo (luôn cố gắng làm Allah hài lòng). Lẽ nào các ngươi không hiểu (hỡi những kẻ đa thần)?! info
التفاسير:

external-link copy
33 : 6

قَدۡ نَعۡلَمُ إِنَّهُۥ لَيَحۡزُنُكَ ٱلَّذِي يَقُولُونَۖ فَإِنَّهُمۡ لَا يُكَذِّبُونَكَ وَلَٰكِنَّ ٱلظَّٰلِمِينَ بِـَٔايَٰتِ ٱللَّهِ يَجۡحَدُونَ

TA thực sự biết rõ những gì họ nói làm Ngươi (Thiên Sứ) buồn rầu. Quả thật họ không phủ nhận Ngươi, tuy nhiên, những kẻ sai quấy thường chống đối các Lời Mặc Khải của Allah. info
التفاسير:

external-link copy
34 : 6

وَلَقَدۡ كُذِّبَتۡ رُسُلٞ مِّن قَبۡلِكَ فَصَبَرُواْ عَلَىٰ مَا كُذِّبُواْ وَأُوذُواْ حَتَّىٰٓ أَتَىٰهُمۡ نَصۡرُنَاۚ وَلَا مُبَدِّلَ لِكَلِمَٰتِ ٱللَّهِۚ وَلَقَدۡ جَآءَكَ مِن نَّبَإِيْ ٱلۡمُرۡسَلِينَ

Quả thật, các vị Thiên Sứ trước Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) cũng đã bị phủ nhận nhưng Họ đã kiên nhẫn chịu đựng trước sự phủ nhận và gây hại (của những kẻ phủ nhận chống đối) cho đến khi TA (Allah) mang đến cho Họ sự chiến thắng. Quả thật, lời (hứa ban cho sự chiến thắng) của Allah không hề thay đổi. Ngươi đích thực đã nhận được các nguồn tin của các vị Thiên Sứ (trước Ngươi). info
التفاسير:

external-link copy
35 : 6

وَإِن كَانَ كَبُرَ عَلَيۡكَ إِعۡرَاضُهُمۡ فَإِنِ ٱسۡتَطَعۡتَ أَن تَبۡتَغِيَ نَفَقٗا فِي ٱلۡأَرۡضِ أَوۡ سُلَّمٗا فِي ٱلسَّمَآءِ فَتَأۡتِيَهُم بِـَٔايَةٖۚ وَلَوۡ شَآءَ ٱللَّهُ لَجَمَعَهُمۡ عَلَى ٱلۡهُدَىٰۚ فَلَا تَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡجَٰهِلِينَ

Nếu sự quay lưng của (những kẻ đa thần) là điều trở ngại lớn cho Ngươi (hỡi Thiên Sứ) thì với khả năng của Ngươi, hãy đào một đường hầm dưới đất hoặc hãy bắt một cái thang lên trời để mang đến cho họ một dấu hiệu (để thuyết phục họ). Quả thật, nếu Allah muốn thì chắc chắn Ngài đã tập hợp toàn bộ họ đi trên chính đạo. Cho nên, Ngươi chớ là kẻ ngu muội.[1] info

[1] Thiên Sứ thấy rằng mặc dù đã dành một thời gian dài để khuyên nhủ người dân của mình nhưng họ hầu như không đáp lại lời kêu gọi của Người. Kết quả là đôi khi Người mong muốn sự xuất hiện một dấu hiệu lạ nào đó từ nơi Thượng Đế sẽ làm suy yếu sự ngoan cố của người dân và khiến họ chấp nhận sự hướng dẫn của Người. Câu Kinh này thể hiện phản ứng của Thượng Đế đối với mong muốn của Thiên Sứ. Người được bảo đừng nôn nóng. Người phải kiên trì phấn đấu và tiếp tục làm tròn sứ mạng phù hợp với chỉ thị của Allah. Allah thừa khả năng ban xuống những dấu hiệu lạ và thừa khả năng hướng dẫn toàn bộ đến chính đạo nhưng Ngài đã không coi đó là phương pháp thích hợp để hoàn thành cuộc cách mạng trí tuệ và đạo đức cần thiết hoặc cho sự phát triển của một nền văn minh lành mạnh. Nếu Thiên Sứ không thể kiên nhẫn chịu đựng thái độ bướng bỉnh và sự quay lưng của người dân của Người, và nếu Người nghĩ cần phải làm cho họ chứng kiến một dấu hiệu lạ hữu hình của Thượng Đế, thì Người hãy tập trung tất cả sức mạnh và cố gắng để đào một cái hầm dưới đất hoặc bắt một cái thang lên trời và mang đến một phép lạ đủ mạnh để thay đổi đức tin của những kẻ vô đức tin. Tuy nhiên, Thiên Sứ được cho biết rằng về vấn đề này, Người không nên mong đợi Thượng Đế thực hiện ước muốn của mình, vì những điều như vậy không có chỗ trong kế hoạch của Ngài. Cho nên, Thiên Sứ chớ đâm ra thoái chí và mất kiên nhẫn giống như một kẻ ngu muội.

التفاسير: